Đại Phong Quát Quá viết
(Bản dịch@thinhphonghiendfgg)

IV – Giếng cổ Mụ Mụ 

Chương chín mươi hai

Dực vương cũng đến trước mặt Đại vương, thì thầm một hồi bên tai Đại vương rồi nhét vào tay nó một cái túi nhỏ có vẻ khá nặng.

Đại vương cụp mí mắt, cất cái túi đi.

Con trai của Vân Thái sư cũng tiến đến hành lễ với Đại vương, Đại vương đanh giọng nói: “Ta giờ đã là thứ dân, không cần làm thế này.”

Vân Dục đáp: “Trong lòng Vân Dục, mãi mãi vẫn phải hành lễ.”

Đại vương nhìn nhìn y ta rồi không nói gì.

Hoài vương lại vỗ lên vai Đại vương: “Đi đường cẩn thận.” Tiếp đó lại nhíu mày lướt mắt qua đám tiểu lại của Tông chính phủ và nội hoạn, “Sao thế, muốn cùng đi đến cái thôn quê kia luôn à?”

Tiểu lại vội vã đáp: “Không phải, không phải ạ, hồi bẩm vạn tuế, ra khỏi thành mười dặm là phải đi bộ. Sẽ đổi sang xe ngựa ở đình này ạ.”

Hoài vương khẽ gật đầu.

Đại vương ngạo nghễ nói: “Có đi bộ cũng chẳng sao.”

Hoài vương nói: “Đừng có cố quá, mệt tới mức què quặt giống thúc luôn đấy, sau này có hối hận thì cũng muộn rồi. Trên đời này tại sao lại có xe, chính là để đi bộ ít lại đó. Con không ngồi, chẳng phải là phụ lòng những người đã sáng tạo ra cái xe sao?”

Đại vương cụp mắt, vâng một tiếng.

Cuối cùng thì Hoài vương, Dực vương và Đại vương cũng nói chuyện xong. Trước lúc lên đường, Hoài vương rảo mắt sang đám tiểu lại Tông chính phủ và hoạn quan mà nói: “Cô cũng không nói nhiều nữa, trên đường đi, nhất định phải chu toàn.”

Đám tiểu lại và hoạn quan dập đầu không ngừng. Hoài vương chuyển sang nhìn Lan Giác, khẽ lộ ra ý cười: “Lan Thị lang trên đường đi cũng phải bảo trọng.”

Lan Giác thi lễ: “Thần tạ điện hạ quan tâm.”

Hoài vương lại tiến lên thêm hai bước, dấn sát bên tai Lan Giác: “Đứa cháu này của ta đành phiền Lan Thị lang chăm sóc dạy bảo rồi.”

Lan Giác lùi về sau một bước, cúi người hành lễ.

Hoài vương đỡ lấy hai vai y, vỗ nhẹ. Lan Giác ngước mắt lên, vừa hay chạm phải ánh nhìn ngập đầy tiếu ý của Hoài vương: “Lan Thị lang, tiểu vương phải rời đi trước rồi. Lúc nãy để ngài nghe mấy chuyện không đâu, mong ngài đừng chê cười nhé. Đợi đến ngày hồi kinh chúng ta lại gặp nhau.”

Lan Giác cụp mắt xuống, khẽ cười đáp: “Được nghe những lời điện hạ nói tựa như tắm trong gió xuân. Thần cung tiễn điện hạ.”

Hoài vương, Dực vương cùng con trai của Vân Thái phó rời đi, những người “tình cờ gặp” lũ lượt kéo đến. Đại vương không thèm nhìn ngó gì đã lập tức leo lên xe ngựa, mấy kẻ “tình cờ gặp” đó hỏi thăm khách sáo vài câu, sau khi Lan Giác đáp lễ với đám tiểu lại hoạn quan xong thì mạnh ai nấy rời đi.

Thái giám đi theo cũng vào xe ngựa của Đại vương. Lan Giác thấy khoang xe rất nhỏ, nếu thêm người nữa thể nào cũng phải ngồi chen chúc nên bèn mời tiểu lại của Tông chính phủ đến khoang xe mình mà ngồi.

Tiểu lại lập tức đáp: “Sao được chứ, ti chức nào có thể ngồi cùng xe với Lan Thị lang được, không dám, thật không dám.”

Lan Giác nói: “Tôi đã nghỉ phép rời Kinh, lúc này không đảm nhận nhiệm vụ gì, nên chẳng có chức quan gì ở đây cả. Xe của nhà thô sơ, mong Bách đại nhân không chê, vừa hay có thể nói chuyện phiếm với nhau.”

Đại thái giám đi cùng – Biện công công là do hoàng thượng chỉ định phái đi, lúc còn trẻ đã từng phục vụ cho quý phi nương nương, mẹ của Đại vương, và cũng từng hầu hạ Đại vương. Hai tiểu thái giám đều là người trong phủ của Đại vương. Nhỡ tiểu lại vào ngồi cùng xe, ngoài việc phải ngồi chen chúc ra, tất nhiên không tránh khỏi sượng sùng. Tiểu lại do dự một lúc, lại nhún nhường hai ba câu rồi cúi người đáp: “Vậy ti chức phải cảm tạ Lan đại nhân rồi.”

Lan Giác không quay trở lại ngồi cùng Lan Huy mà lên một xe khác với tiểu lại.

Người trong Tông chính phủ đa phần đều là thân thích hoàng thất. Trước khi đi, Lan Giác đã tìm hiểu qua mấy tên tùy tùng của Đại vương. Tiểu lại Bách Thương của Tông Chính phủ này tuy chỉ là tòng thất phẩm, cấp quan còn thấp hơn cả Trương Bình, nhưng gốc gác lại có chút dây mơ rễ má với bên tôn thất, hơn nữa cũng có thể tính là thân thích với chỗ Liễu gia.

Tất nhiên Bách Thương biết rõ mớ quan hệ này rồi. Làm quan trong triều, ai cũng không muốn đắc tội với người của Tông chính phủ, có thể ban ơn lấy lòng được bao nhiêu thì hay bấy nhiêu, mấy chuyện liên quan đến tình nghĩa với y ta mà nói chỉ bình thường như cơm bữa. Nhưng Lan Giác thân làm Lễ bộ Thị lang, giao tình với Tông Chính Lệnh cũng không tệ, không để ý đến con tép nhỏ này, cứ cao cao tại thượng mà ban phát cho chút ân huệ là được rồi. Dù sao Bách Thương cũng chỉ tiễn Đại vương đến nơi là trở về Kinh ngay, còn Lan Giác được lệnh đi theo Đại vương là sau khi đến thôn Niệm Cần, nên những chuyện trên đường đi vốn không liên quan gì đến y lắm. Nếu là vì lợi ích về sau, chỉ cần chút giao hảo với mấy vị công công hầu hạ Đại vương là được. Để y ta ngồi cùng xe, phần tình nghĩa này cũng nhận được sự cảm kích kha khá từ Bách Thương.

Thế là sau khi lên xe ngồi, qua dăm ba câu khách sáo, Bách Thương bèn chủ động hỏi: “Quê nhà của Lan đại nhân ở gần bên Huyện Phong Lạc à?”

Lan Giác khẽ cười đáp: “Vâng, quê tôi ở Huyện Cửu Hòa.”

Bách Thương nói: “Tổ tiên của ty chức năm xưa hầu hạ Thái tổ hoàng đế, đã từng đi qua Cửu Hòa, nhưng khi đó là đi đánh giặc.”

Lan Giác nhướng mày: “Tổ tiên nhà ta là kỵ binh trong Hổ doanh? Thất kính thất kính. Ngày nay tuy chỉ được đọc trận Cửu khúc hà thông qua ghi chép trong sách sử, nhưng vẫn cảm thấy đao phong máu lửa như thoát ra khỏi trang giấy.”

Bách Thương khiêm nhường đáp: “Tổ tiên của ty chức chỉ là một quân tiên phong bé nhỏ trong Hổ doanh mà thôi. Năm đó đại thắng là nhờ thiên mệnh của Thái tổ hoàng đế. Tổ tiên vẫn thường nói với đám hậu bối, có thể làm quân trong doanh là may mắn vô ngần.”

Lan Giác nói: “Công lớn không kiêu, tổ tiên nhà ta quả song đức vẹn toàn. Nói ra thì, tổ tiên của tiên nhạc* năm đó cũng trong Hổ doanh.”

Bách Thương vội nói: “Không dám không dám. Ông tổ của tiên Liễu lão thái phó Liễu Cần Thái phó thần cơ diệu toán. Trận Cửu khúc hà đại thắng cũng là nhờ diệu kế của Thái phó. Vô cùng chu toàn uy vũ.” Y ta thừa biết quan hệ sượng sùng giữa Lan Giác và Liễu gia, nên mới nãy cẩn trọng không dám nhắc đến trước. Thấy Lan Giác thoải mái gợi nhắc nên mới nói ra. Rồi y ta nói tiếp, “Đường thúc tổ mẫu của ty chức, cũng họ Liễu, là thân thích xa của Lão thái phó đấy ạ.”

Lan Giác kinh ngạc: “Hóa ra Bách đại nhân và tôi lại là thông gia à?”

Bách Thương đứng dậy: “Ty chức không dám nói bậy.”

Lan Giác cũng đứng dậy đỡ lấy: “Có thông gia nào lại nói chuyện với nhau thế này chứ, Bách đại nhân đừng khách sáo quá. Về sau phải năng qua lại mới đúng.”

Bách Thương nhếch mép cười nói: “Luận về vai vế, đại nhân cao hơn ty chức một bậc. Nếu đại nhân không chê, về sau cứ gọi nhũ danh của tôi là được. Nói lý ra thì ty chức phải gọi đại nhân một tiếng thúc phụ, không biết có mạo phạm đại nhân hay không.”

Lan Giác cười nói: “Thông gia hai bên nên phải thân thiết một chút chứ, đợi một lát nữa tôi cũng bảo Lan Huy đến bái kiến đại nhân.”

Bách Thương cúi người chắp tay nói: “Tiểu chất bái kiến thúc phụ.”

Lan Giác mỉm cười đỡ y ta dậy, hai người lại nói chuyện một thôi một hồi, thân thiết vô cùng.

Đúng chính ngọ, xe ngựa chạy đến chỗ vùng hoang du rồi dừng bên đường. Bách Thương đi sắp xếp ngọ thiện cho Đại Vương trước.

Trong đám tùy tùng của Đại vương vẫn chưa có đầu bếp. Chủ quản Biện công công trước đó đã bàn qua với Lan Giác. Vốn họ muốn nhanh chóng đến dịch quán thị trấn để dùng bữa. Nhưng trên danh nghĩa, Đại vương vẫn đang bị đày lưu vong, nhỡ quan phủ địa phương xử lý không hợp lễ chế, ngược lại còn bị đàm tiếu. Thế nên cứ để Lan Giác tùy ý dắt theo hai toán đầu bếp. Một toán lo việc ăn uống của Đại vương, toán kia lo liệu việc nhà. Tiểu hoạn quan mang đồ ăn theo, cũng chỉ là lương khô. Đại vương thuận theo cũng thấy thuận tiện, mà cảm thấy Lan Giác cũng được Đại vương nể tình rồi. Cả hai bên đều hài lòng.

Bữa trưa được đem vào trong xe của Đại vương. Tiểu hoạn quan khéo léo ám thị với Bách Thương, y ta mà ở lại sẽ ảnh hưởng đến tâm trạng dùng bữa của Đại vương. Bách Thương thức thời lui ra khỏi xe. Lan Giác vốn định vào trong một xe khác cùng ăn trưa với Lan Huy, nghe đầy tớ báo chuyện này xong, bèn vỗ vỗ đầu Lan Huy, bảo nó ăn cơm một mình. Kêu người mời Bách Thương đến cái xe ban nãy, cùng y ăn cơm.

Lan Huy nghiêm trang bảo: “Cha, cha đi đi, con ăn một mình cũng được mà.”

Lan Giác khẽ cười bảo: “Ngoan, đợi sau khi thăm mộ tổ tiên xong, cha sẽ cùng con thả diều.”

Lan Huy gật đầu, nhưng không tỏ ra vui mừng gì lắm với chuyện thả diều này.

Đứa con này lớn thật rồi. Mấy thứ đồ chơi dụ dỗ nó lúc bé đã không còn tác dụng nữa. Xem ra phải nghĩ ra cái gì mới mới được. Lan Giác lại xoa đầu Lan Huy, rồi đi sang xe khác dùng bữa chung với Bách Thương.

Lần đi này, Lan Giác dùng xe ngựa vô cùng đơn giản, nhưng mành vải vật sức đều không hề thất thố với lễ chế của mệnh quan triều đình tòng tam phẩm. Món ăn là những món bình thường trong các gia đình, chay mặn mỗi loại hai dĩa, kèm thêm bát canh, chén dĩa cũng chỉ làm từ gốm sứ dễ tìm.

Cùng ăn cơm với nhau nên Bách Thương càng cảm thấy bản thân y cùng Lan Giác càng thân thiết hơn. Bỗng dưng nhắc đến một nơi mà trên đường đi sẽ ngang qua có liên quan đến Huyện Phong Lạc, Bách Thương nói: “Thôn Niệm Cần là nơi Thái tổ hoàng đế khích lệ người dân tán thưởng nông nghiệp, thánh ý của hoàng thượng rất sâu sắc.”

Lan Giác khẽ cười gật đầu.

Lai lịch của Thôn Niệm Cần xuất phát từ một điển cố. Sau khi Thái tổ hoàng đế đăng cơ, để khuyến khích làm nông canh tác đã miễn thuế ba năm. Tây Vực có một tiểu quốc đến cống nạp, trong cống phẩm có một con thiên lý mã, một thanh bảo kiếm. Vừa đúng lúc Thái tổ hoàng đế đang đọc sổ gấp do Kinh Triệu Doãn dâng lên báo cáo tình hình mùa màng của Huyện Kinh Giao, bèn nói, đao kiếm ngựa chiến đều là thứ dùng để chinh chiến. So với bảo khí ngựa khỏe, lòng trẫm lại nghĩ về ruộng đất phì nhiêu mùa màng bội thu trong thôn như này hơn ngàn vạn lần. Thế là từ dạo đó Huyện Phong Lạc lấy tên là Huyện Phong Lạc. Và thôn có một mẩu ruộng phì nhiêu sản lượng cao chót vót trong quyển sổ gấp mà Thái tổ hoàng đế đang đọc đã được ban tặng cho cái tên Thôn Niệm Cần[1].

 Quan viên Hộ bộ trong Kinh triệu phủ rất thích đến tận nơi đó xem xét trong vụ thu hoạch thu. Tiên đế và các hoàng đế đời trước cũng đã từng quá bộ đến, nay đã có hành quán nhà cửa. Vĩnh Tuyên đế gửi Đại vương đến chỗ này, vừa cho thấy ý muốn quản thúc đệ đệ, lại vừa thuận tiện, quả thực là anh minh vô cùng.

Bách Thương lại cảm thán nói: “Nói về sự thánh minh của Thái tổ hoàng đế gia, thực sự là nói mãi cũng không hết. Thật ra ở Huyện Phong Lạc vẫn còn một nơi có liên quan đến Thái tổ hoàng đế mà ít người biết. Không biết thúc phụ đã nghe qua chưa. Lúc mới khai quốc, đánh tới địa giới kinh thành, Hổ doanh của tổ tiên cháu đi trước, ngay trong cảnh giới Huyện Phong Lạc đột nhiên trời rung đất chuyển, ngay chỗ cao cao đổ sụp xuống tạo thành một vùng trũng lớn vô cùng. Có kẻ muốn dấy lên hoài nghi mê tín bèn nói gì mà điềm xấu…Thái tổ hoàng đế nói, hiện tượng thiên nhiên vốn không liên quan đến con người, động đất thực sự là điềm dữ ư? Vậy nay ta xé bào bẻ cung, nhìn thấy hung mà không hiểm. Nếu có hung cũng là ứng trên người ta, không liên quan gì đến các tướng sĩ, tự khắc có người hiền năng, thái bình thiên hạ. Liền sau đó thật sự xẻ y giáp, bẻ gãy cung tên, kết quả sĩ khí hừng hực, chỉ huy đoạt lấy kinh sư. Về sau có người phát hiện, chỗ đất trũng đó đã sụp xuống thành hình một cái bát, nói rằng kỳ thực trời tạo nên giang sơn này trong cái bát ấy rồi đem tặng cho Thái tổ hoàng đế, cũng tức là sau khi triều ta được lập nên, bách tính ai ai cũng có gạo ăn. Chính là điềm lành vô cùng. Chỗ đất trũng đó về sau đổi tên lại gọi thành thôn Đại Oản. Cho nên những hiện tượng thiên văn thực sự không chính xác, nhưng sự thánh minh của Thái tổ hoàng đế vẫn sáng rực từ ngàn xưa đến tận hôm nay.”

Lan Giác đáp phải, đương lúc nói chuyện thì màn xe bị vén lên, tên hầu thân cận của Lan Huy bưng dĩa thức ăn vào, đặt nó lên bàn, ngước mắt lên nhìn Lan Giác một cái.

Lan Giác không tỏ vẻ gì, đợi tên hầu lui ra xong thì gạt mành che sang bên, chỉ thấy Đại vương đã ra khỏi xe ngựa. Lan Huy đang đứng ở khoảnh đất trống không xa lắm, Đại vương đương tiến về phía nó mà đi.

Lan Giác và Bách Thương lập tức cùng lúc ra khỏi xe. Vừa lúc đó Đại vương đã đi đến trước mặt Lan Huy rồi.

Lan Huy vốn định nhân lúc Lan Giác đi ăn cơm thì lỉnh ra khỏi xe ngựa thử cái ná mới, đang tìm coi nhành cây nào có chim thì liếc mắt nhìn thấy từ xe ngựa phía xa có mấy người lạ đang đi về phía mình, bất giác khựng lại. Đại vương đứng cách nó hai ba bước, rảo mắt lên người nó: “Ngươi là ai, tên họ là gì?”

Lan Huy đoán người này chắc là Đại vương điện hạ mà cha đã nhắc đến, bèn hành lễ đáp: “Thảo dân Lan Huy, bái kiến Đại vương điện hạ.”

Đại vương lớn hơn Lan Huy vài tuổi, người cũng cao hơn không ít, y ta khoanh tay, từ trên cao nhìn xuống Lan Huy mà nói: “Ta đã là thứ dân rồi, ngươi không cần phải hành lễ vầy đâu. Ngươi là con trai của Lan Giác?”

Lan Huy gật đầu: “Vâng.” Cha có nói, Đại vương điện hạ không dễ đối phó, xem ra là thật rồi.

Đại vương lại nhìn xung quanh một vòng, lướt thấy Lan Giác vừa mới xuống ngựa đang tiến lại đây thì mắt cũng không dừng lại, chỉ lại hướng về phía Lan Huy nói: “Vậy ngươi có biết chỗ này là ranh giới nơi nào không?”

Lan Huy lắc lắc đầu.

Đại vương nhìn chăm chú cái ná trong tay nó: “Ngươi thích chơi cái này à? Ừm, đứa nhóc nào chẳng thích. Hồi ta còn nhỏ cũng từng chơi qua. Nhưng sau đó chỉ bắn cung, rồi thôi không chơi cái này nữa. Ngươi biết cưỡi ngựa bắn cung chứ?”

Lan Huy không trả lời. Nó biết cưỡi ngựa, nhưng chưa từng học qua bắn cung. Trong mắt nó Đại vương vốn đã mang dáng vẻ người lớn rồi, chơi bắn ná lại còn bị Đại vương khinh thường là con nít, khiến nó cảm thấy hơi mất mặt.

Đại vương lại hỏi: “Ngươi cưỡi ngựa đi hay là ngồi xe ngựa?”

Lan Huy đáp: “Thần ngồi cùng xe với cha. Cha với thần về quê tảo mộ.”

Đại vương nói: “Ồ, ngươi đi mà đến một con ngựa cũng không mang theo. Thế làm sao đi săn được.”

Lan Huy đáp lại: “Cha và thần chỉ đi tảo mộ tổ mẫu thôi mà.”

Đại vương hừ một tiếng: “Đến mấy vùng quê sao mà không đi săn được chứ.”

Lan Huy nghẹn một tiếng, Lan Giác đúng lúc tiến lên một bước nói: “Khuyển tử quả thật không giỏi cưỡi ngựa bắn cung, khiến Điện hạ chê cười rồi.”

“Đã bảo là, ta giờ chỉ là thứ dân, đừng có gọi như thế nữa.” Đại vương nghiêm giọng nói, rồi lại liếc mắt về phía Lan Huy, “Con trai của Lan Thị lang đúng là lanh lợi.” Giọng điệu đậm chất ông cụ non khiến Lan Giác suýt nữa đã phì cười, cung kính đáp: “Đa tạ. Khuyển tử thấy thẹn, vẫn còn phải dạy bảo thêm.”

Thái độ này khiến Đại vương vô cùng hài lòng, hừ lên một tiếng.

Biện công công nói với Đại vương: “Lúc này gió to, vừa mới dùng cơm xong, lỡ bị nhiễm lạnh thì không tốt. Mời tiểu chủ nhân trở vào xe ạ.”

Đại vương bực bội nói: “Vừa ăn no xong phải đi qua đi lại chứ. Không lẽ vầy cũng không được?” Rồi lại nhìn quanh quất, “cơ mà chỗ này là chỗ nào thế, bao lâu nữa thì tới?”

Lan Giác chậm rãi rút tấm địa đồ ra khỏi ống tay áo, trải ra, nói với Bách Thương cạnh bên: “Bách đại nhân, tôi cũng không giỏi phân định đường đi lắm, chúng ta đi đến chỗ nào rồi?”

Bách Thương điểm vào một chỗ trên địa đồ: “Bẩm đại nhân, là vùng này.”

Lan Giác liền khẽ cười nói với Đại vương: “Bẩm tiểu công tử, nơi này là Phong Thụ thôn, sắp đến địa giới của Huyện Cửu An rồi.”

Đại vương vẫn khoanh tay, chừng như gật đầu theo phản xạ.

Lan Giác chầm chậm xếp địa đồ lại, nhét vào ống tay, có thể cảm thấy ánh nhìn đến nhức nhối của Đại vương nhằm vào tấm địa đồ.

Dù sao cũng có hảo cảm với đám người Bách Thương rồi, nhỡ xảy ra chuyện gì, việc đầu tiên nghĩ đến cũng là hỗ trợ lẫn nhau, cần phải nói gì đó để không bị chê trách. Vậy thì, cũng nên nhắc khéo chút thôi – chắc chắn Đại vương đang tính đường bỏ trốn, phiêu bạt thiên nhai, khuấy đảo giang hồ đây mà.

.

Tại huyện nha Phong Lạc, Vương công công nhìn chăm chăm hai tên ngốc trước mặt mình, trong lòng đầy cam chịu.

Ông chỉ có thể khiến cho mắt mình trông thêm nghiêm khắc, dùng giọng điệu đầy ý vị thâm trường nhất mà nói: “Trương Tri huyện, ăn nói phải biết cẩn trọng đấy. Ngôi miếu đó nếu không linh nghiệm đến vậy, vậy thì sao…”

Trương Bình đáp: “Bản huyện cần chứng cứ cho một vụ án nên đang muốn phong sơn vét quan.”

 Vương công công thở dài, tên này thật tình ngu si đến mức ông chịu không thấu rồi. lão già như ông nhân từ không nổi nữa: “Trương Tri huyện, bọn tôi nghe xong nhưng vẫn thấy mơ hồ. Chuyện mà ngài nói quả thật hệ trọng, nhỡ như Thái hậu nương nương dâng hương không thành, bọn chúng tôi có chết vạn lần cũng chưa hết tội, cần phải hồi Kinh bẩm báo. Trương đại nhân ngài đã hiểu chưa?”

Trương Bình chấp tay nói: “Mong công công báo đúng sự thật.”

Bỗng dưng ước muốn mượn một tia chớp đánh chết tên đần độn này nổi lên trong lòng Vương công công làm sao. May thay ngay lúc này, một tên ngốc đần họ Tạ khác dường như sực tỉnh u mê, quỳ sụp xuống đất.

“Công công! Ý của Tri huyện đại nhân chính là, quan Từ Thọ hiện tại có liên quan đến vụ án này, bắt buộc phải phong tỏa quan để điều tra lấy chứng cứ. Một khi bằng chứng vẫn không đủ thì không thể phán án. Nhưng vì Thái hậu nương nương thưởng cúng kính hương, nên huyện nha ngàn vạn lần không dám giấu diếm, nên mới cố ý đến báo với công công người!”

“Việc này…” Vương công công nhíu mày, “càng làm bọn tôi mù mờ hơn rồi, thế muốn bọn tôi trở về Kinh báo thế nào với Thái hậu nương nương mới được đây? Nhưng mà để lỡ việc dâng hương, chúng ta chịu trách nhiệm không nổi đâu.”

“Công công!” Trương Bình đang muốn mở miệng nói, hai đầu gối của Tạ Phú đã nhích lên trước hai bước, “hôm nay không phải là ngày lành tháng tốt, việc dâng hương để mai mới lành. Hôm nay trước khi mặt trời lặn, sẽ cho công công câu trả lời, được không ạ?”

Vương công công ngó ông ta, rồi lại quay sang nhìn Trương Bình. Trương Bình cụp mắt xuống, im lặng. Vương công công hơi ngần ngừ rồi gật gật đầu: “Cũng được, mong hai vị đại nhân ngàn vạn lần đừng bẫy bọn tôi nha. Mạng già của bọn này đều treo lủng lẳng trên cao rồi đấy.”

Trương Bình lẳng lặng hành lễ rồi ra khỏi sảnh đường. Tạ Phú cũng lảo đảo theo ra, Ngay chỗ khúc ngoặc của hành lang đã kéo hắn lại.

“Ngài muốn làm gì?”

Trương Bình đáp: “Lập tức cho người lên núi đào quan, có chứng cứ rồi thì có thể bẩm báo đúng sự thật.”

Tạ Phú khàn giọng túm chặt lấy hắn: “Ngài điên rồi hả? Ngài muốn kéo nhiều người chết chung vậy ư? Vương công công gia hạn cho nửa ngày, ngài vẫn cứ muốn mọi người chết chùm? Ngài có tin là giờ tôi chết cho ngài xem luôn không? Ngài có tin là giờ tôi giết ngài chết luôn không hả?”

Trương Bình nghiêm túc nhìn đôi mắt đầy tơ máu của ông nói: “Đừng muốn chết. Mạng người là quý nhất. Sự thật là chứng cứ, pháp luật là căn cứ, kẻ oan phải được rửa tội, chân tướng bắt buộc phải sáng rõ.”

“Ngài…”

“Đại nhân…” Nha dịch đứng dưới hành lang run giọng nói, kịp thời ngăn cản hành động của Tạ Phú nhằm vào yết hầu Trương Bình, “Tri, Tri huyện đại nhân, lại có thêm một người nữa đến, cũng nói là muốn gặp đại nhân, bảo là có việc, gặp xong sẽ đi ngay.”

Lúc này Tạ Phú mới phát hiện, ở chỗ xa xa dưới hành lang, có không ít bóng người đứng đơ ra ngó về phía này.

Tạ Phú rút tay về, gượng gạo lùi về sau một bước, sửa lại tư thế đứng. Trương Bình nói với nha dịch: “Người đó đang ở đâu?”

Nha dịch mau mắn chỉ về một nơi, Trương Bình nhìn theo hướng đó thì nhìn thấy ở chỗ uốn khúc hơi xéo của hành lang đối diện là Liễu Đồng Ỷ đang nhìn về phía mình.

—————————

Lời dịch giả: Nói chuyện với Trương Bình nhiều lúc tức đến muốn nghẹn họng :))))))))

—————————-

[1] Ý là phải nhớ chăm chỉ cần cù